Giá trị pH mà khi đó amino acid có nồng độ ion lưỡng cực là cực đại được gọi là điểm đẳng điện (kí hiệu là pI). Khi pH < pI thì amino acid đó tồn tại chủ yếu ở dạng cation, còn khi pH > pI thì amino acid đó tồn tại chủ yếu ở dạng anion. Khi đặt trong một điện trường dạng anion sẽ di chuyến về cực (+) còn dạng cation sẽ di chuyển về cực (-). Tính chất này được gọi là tính điện di và được dùng để tách, tinh chế amino acid ra khỏi hỗn hợp của chúng. Cho các giá trị pI của các chất sau:
H2NCH2COOH (X) có pI = 6,0
HOOCCH2CH2CH(NH2)COOH (Y) có pI = 3,2
H2N[CH2]4CH(NH2)COOH (Z) có pI = 9,7
a) (X), (Y), (Z) có tên gọi lần lượt là: glycine, gluconic acid, lysine.
b) Nếu chỉ dùng thêm dung dịch phenolphthalein thì không thể phân biệt được dung dịch bão hoà chứa từng chất (X), (Y), (Z).
c) Giá trị pH=9,7 là giá trị pH lớn nhất để tách chất (X), (Y), (Z) ra khỏi dung dịch hỗn hợp của chúng dưới tác dụng của điện trường.
d) Khi thuỷ phân tripeptide thu được hỗn hợp (X), (Y), (Z), số đồng phân tripeptide là 12.
Câu trả lời tốt nhất
(a) Sai, (X), (Y), (Z) có tên gọi lần lượt là: glycine, glutamic acid, lysine.
(b) Đúng, phenolphthalein không nhận biết được X và Y (đều không màu); Z làm phenolphthalein chuyển màu hồng.
(c) Sai, tại pH = 9,7 lớn hơn pI của X và Y nên X và Y cùng di chuyển về cực dương; Z không di chuyển —> Chỉ tách được Z, còn lại X, Y không tách được.
pH lớn nhất để tách 3 chất là pH = 6 (X không di chuyển, Y di chuyển về cực dương, Z di chuyển về cực âm).
(d) Sai, chỉ cặp -NH2 và -COOH ở vị trí α so với nhau mới có thể tạo hợp chất peptide, vì vậy chỉ có 6 tripeptide tạo ra từ X, Y, Z (đủ 3 gốc X, Y, Z trong mỗi tripeptide): XYZ, XZY, YXZ, YZX, ZXY, ZYX.