Khi để ngoài môi trường không khí, đinh sắt thường bị oxi hoá một phần thành gỉ sắt (Fe2O3.nH2O). Để xác định thành phần của chiếc đinh sắt đã bị oxi hoá, tiến hành thí nghiệm như sau:
• Bước 1: Hoà tan hoàn toàn đinh sắt vào dung dịch H2SO4 loãng, dư thu được 0,055 mol khí H2 và 100 mL dung dịch X.
• Bước 2: Lấy 20 mL dung dịch X, cho tác dụng với dung dịch NaOH dư, lọc lấy kết tủa, nung trong không khí đến khối lượng không đổi thu được 1,28 gam chất rắn.
• Bước 3: Chuẩn độ 10 mL dung dịch X (trong môi trường H2SO4 loãng, dư) bằng dung dịch KMnO4 0,07 M đến khi xuất hiện màu hồng nhạt thì dừng. Lặp lại thí nghiệm chuẩn độ thêm 2 lần nữa. Thể tích trung bình của dung dịch KMnO4 sau 3 lần chuẩn độ là 20,0 mL.
Giả thiết toàn bộ gỉ sắt tạo ra bám trên đinh sắt. Phần trăm khối lượng sắt đã bị oxi hoá thành gỉ sắt là
A. 15,5%. B. 25,0%. C. 20,0%. D. 22,5%.
Câu trả lời tốt nhất
10 mL X chứa nFe2+ = 5nKMnO4 = 5.20.0,07 = 7 mmol
20 mL X chứa Fe2+ (14 mmol) và Fe3+ (x mmol)
Bảo toàn Fe —> 14 + x = 2.1,28.1000/160
—> x = 2
100 mL X chứa Fe2+ (70 mmol) và Fe3+ (10 mmol)
Quy đổi sắt gỉ thành Fe (80), O (y mmol) và H2O
nH2 = 55 mmol, bảo toàn electron:
70.2 + 10.3 = 55.2 + 2y —> y = 30
—> nFe2O3 = y/3 = 10
—> %Fe bị oxi hóa = 10.2/80 = 25%